Điện di gel polyacrylamide
Điện di trên gel là một kỹ thuật cơ bản trong các phòng thí nghiệm thuộc các ngành sinh học, cho phép tách các đại phân tử như DNA, RNA và protein. Các phương tiện và cơ chế phân tách khác nhau cho phép các tập hợp con của các phân tử này được phân tách hiệu quả hơn bằng cách khai thác các đặc tính vật lý của chúng. Đối với protein nói riêng, điện di trên gel polyacrylamide (PAGE) thường là kỹ thuật được lựa chọn.
TRANG là một kỹ thuật phân tách các đại phân tử như protein dựa trên khả năng di động điện di của chúng, nghĩa là khả năng chất phân tích di chuyển về phía điện cực có điện tích trái dấu. Trong TRANG, điều này được xác định bởi điện tích, kích thước (trọng lượng phân tử) và hình dạng của phân tử. Các chất phân tích di chuyển qua các lỗ hình thành trong gel polyacrylamide. Không giống như DNA và RNA, protein có điện tích khác nhau tùy theo các axit amin được kết hợp, điều này có thể ảnh hưởng đến cách chúng hoạt động. Các chuỗi axit amin cũng có thể hình thành các cấu trúc thứ cấp ảnh hưởng đến kích thước biểu kiến của chúng và do đó ảnh hưởng đến khả năng chúng di chuyển qua các lỗ chân lông. Do đó, đôi khi có thể làm biến tính protein trước khi điện di để tuyến tính hóa chúng nếu cần ước tính kích thước chính xác hơn.
TRANG SDS
Điện di gel natri-dodecyl sulfate polyacrylamide là một kỹ thuật được sử dụng để tách các phân tử protein có khối lượng từ 5 đến 250 kDa. Các protein được phân tách chỉ dựa trên trọng lượng phân tử của chúng. Natri dodecyl sunfat, một chất hoạt động bề mặt anion, được thêm vào trong quá trình chuẩn bị gel để che đi điện tích bên trong của các mẫu protein và mang lại cho chúng tỷ lệ điện tích trên khối lượng tương tự. Nói một cách đơn giản, nó làm biến tính protein và mang lại cho chúng điện tích âm.
TRANG gốc
TRANG gốc là một kỹ thuật sử dụng gel không biến tính để tách protein. Không giống như TRANG SDS, không có chất biến tính nào được thêm vào trong quá trình tạo gel. Kết quả là quá trình phân tách protein diễn ra dựa trên điện tích và kích thước của protein. Trong kỹ thuật này, cấu trúc, chuỗi gấp và chuỗi axit amin của protein là những yếu tố phụ thuộc vào sự phân tách. Các protein không bị hư hỏng trong quá trình này và có thể được phục hồi sau khi quá trình phân tách hoàn tất.
Điện di trên gel polyacrylamide (PAGE) hoạt động như thế nào?
Nguyên tắc cơ bản của PAGE là tách các chất phân tích bằng cách cho chúng đi qua các lỗ của gel polyacrylamide bằng dòng điện. Để đạt được điều này, hỗn hợp acrylamide–bisacrylamide được polyme hóa (polyacrylamide) bằng cách bổ sung ammonium Persulfate (APS). Phản ứng được xúc tác bởi tetramethylethylenediamine (TEMED), tạo thành một cấu trúc dạng lưới có các lỗ để chất phân tích có thể di chuyển (Hình 2). Tỷ lệ phần trăm tổng acrylamide có trong gel càng cao thì kích thước lỗ chân lông càng nhỏ, do đó các protein có thể đi qua càng nhỏ. Tỷ lệ acrylamide và bisacrylamide cũng sẽ ảnh hưởng đến kích thước lỗ chân lông nhưng tỷ lệ này thường được giữ không đổi. Kích thước lỗ nhỏ hơn cũng làm giảm tốc độ mà các protein nhỏ có thể di chuyển qua gel, cải thiện độ phân giải của chúng và ngăn chúng chạy nhanh vào đệm khi có dòng điện chạy vào.
Thiết bị điện di trên gel Polyacrylamide
Tế bào điện di gel (Bể/buồng)
Bể gel dùng cho điện di gel polyacrylamide (PAGE) khác với bể gel agarose. Bể gel agarose nằm ngang, trong khi bể PAGE thẳng đứng. Bằng tế bào điện di dọc (bể/buồng), một lớp gel mỏng (thường là 1,0mm hoặc 1,5mm) được đổ vào giữa hai tấm kính và gắn sao cho phần dưới của gel chìm trong đệm trong một buồng và phần trên chìm trong đệm ở một buồng khác. Khi cho dòng điện vào, một lượng nhỏ chất đệm sẽ di chuyển qua gel từ ngăn trên xuống ngăn dưới. Với các kẹp chắc chắn để đảm bảo tổ hợp luôn ở vị trí thẳng đứng, thiết bị tạo điều kiện cho gel chạy nhanh và làm mát đều, tạo ra các dải khác biệt.
Công ty TNHH Công nghệ sinh học Liuyi Bắc Kinh (Công nghệ sinh học Liuyi) sản xuất nhiều loại tế bào điện di gel polyacrylamide (bể/buồng) với nhiều kích cỡ khác nhau. Các mẫu DYCZ-20C và DYCZ-20G là các tế bào điện di dọc (thùng/buồng) để phân tích trình tự DNA. Một số tế bào điện di dọc (thùng/buồng) tương thích với hệ thống thấm, như mẫu DYCZ-24DN, DYCZ-25D và DYCZ-25E tương thích với mẫu hệ thống Western Blotting DYCZ-40D, DYCZ-40G và DYCZ-40F, được sử dụng để chuyển phân tử protein từ gel sang màng. Sau điện di SDS-PAGE, Western Blotting là kỹ thuật phát hiện một loại protein cụ thể trong hỗn hợp protein. Bạn có thể chọn các hệ thống thấm này theo yêu cầu thử nghiệm.
Cung cấp năng lượng điện di
Để cung cấp điện cho gel chạy, bạn sẽ cần nguồn điện di. Tại Công nghệ sinh học Liuyi, chúng tôi cung cấp nhiều loại nguồn điện di cho tất cả các ứng dụng. Model DYY-12 và DYY-12C với điện áp và dòng điện ổn định cao có thể đáp ứng điện di yêu cầu điện áp cao. Nó có chức năng chờ, hẹn giờ, VH và ứng dụng từng bước. Chúng lý tưởng cho ứng dụng điện di trình tự DNA và IEF. Đối với ứng dụng điện di protein và DNA nói chung, chúng tôi có model DYY-2C, DYY-6C, DYY-10, v.v., đây cũng là những bộ nguồn bán chạy với tế bào điện di (bể/buồng). Chúng có thể được sử dụng cho các ứng dụng điện di điện áp trung và thấp, chẳng hạn như sử dụng trong phòng thí nghiệm trường học, phòng thí nghiệm bệnh viện, v.v. Thêm các mô hình nguồn điện, vui lòng truy cập trang web của chúng tôi.
Thương hiệu Liuyi có lịch sử hơn 50 năm tại Trung Quốc và công ty có thể cung cấp các sản phẩm ổn định và chất lượng cao trên toàn thế giới. Qua nhiều năm phát triển, nó xứng đáng với sự lựa chọn của bạn!
Để biết thêm thông tin về chúng tôi, vui lòng liên hệ với chúng tôi qua email[email được bảo vệ] or [email được bảo vệ].
Tài liệu tham khảo Điện di trên gel polyacrylamide là gì?
1. Tiến sĩ Karen Steward Điện di trên gel polyacrylamide, Cách thức hoạt động, Các biến thể kỹ thuật và ứng dụng của nó
Thời gian đăng: 23-05-2022